Chẩn đoán nhược cơ như thế nào?
Nhược cơ là một trong những bệnh lý thần kinh – cơ tự miễn thường gặp nhiều hơn ở nữ giới. Khi mắc phải căn bệnh này, người bệnh sẽ gặp phải vấn đề là giảm số lượng các thụ thể acetylcholine tại bản vận động cơ do sự tấn công của các kháng thể tự miễn vào các thụ thể này. Bệnh nhược cơ nếu không được điều trị kịp thời thì nguy cơ biến chứng nguy hiểm sẽ rất cao.
1. Bệnh Nhược cơ là gì:
Bệnh nhược cơ còn có tên khoa học khác là Myasthenia gravis, là một loại bệnh lý tự miễn dịch dẫn đến rối loạn dẫn truyền tại các điểm nối thần kinh – cơ ở người bệnh và làm giảm chức năng hoạt động của hệ cơ, với đặc tính là mỏi và yếu cơ vân, biểu hiện này tăng khi người bệnh gắng sức và giảm khi nghỉ ngơi.
Khi mắc bệnh nhược cơ, người bệnh có hiện tượng cơ thể sinh ra một loại kháng thể kháng Achr, từ đó làm giảm số lượng chất này, đồng thời làm giảm sự đáp ứng của các thụ thể Achr tại màng hậu synap khiến cho cơ thể bị giảm hoặc mất sự dẫn truyền các xung thần kinh từ các đầu mút thần kinh tới màng hậu synap thần kinh cơ và dẫn đến hiện tượng yếu cơ, liệt cơ.
Theo thống kê, tỷ lệ mắc bệnh nhược cơ trong dân cư là 0,5-5/100.000. Căn bệnh này có thể gặp phải ở bất kỳ lứa tuổi nào, nhưng dễ mắc nhất ở đối tượng phụ nữ dưới 40 tuổi.
Tùy vào tình trạng và mức độ mà bệnh nhược cơ được phân loại như sau:
- Nhóm I: Nhược cơ khu trú ở mắt;
- Nhóm IIA: Nhược cơ toàn thân nhẹ và chưa có rối loạn hô hấp, nuốt;
- Nhóm IIB: Nhược cơ toàn thân trung bình, bắt đầu có rối loạn nuốt và nói nhưng chưa có rối loạn hô hấp;
- Nhóm III: Nhược cơ toàn thân nặng, cấp tính, xuất hiện rối loạn nói, nuốt và hô hấp;
- Nhóm IV: Nhược cơ nặng như trong nhóm III và kéo dài trong suốt nhiều năm.
2. Dấu hiệu nhận biết bệnh nhược cơ
Chẩn đoán nhược cơ
Bị nhược cơ chân, cơ tay, không thể làm việc, thậm chí không đi lại được là dấu hiệu của bênh nhược cơ
Một số dấu hiệu nhận biết giúp người bệnh nhanh chóng phát hiện bệnh nhược cơ bao gồm:
- Cảm giác yếu mỏi các cơ và cảm giác có sự thay đổi trong ngày, khi nghỉ ngơi và khi vận động;
- Bị sụp mí mắt hoặc có thể kết hợp với nhìn đôi, lác.
- Bị nhược cơ chân, cơ tay, không thể làm việc, thậm chí không đi lại được;
- Bị nhược cơ vùng hầu của thanh quản, người bệnh bỗng nhiên nói ngọng, khó nói, khó nuốt;
- Bị nhược cơ hô hấp, cảm thấy khó thở, nếu nặng sẽ là suy thở và đe dọa tính mạng.
3. Đối tượng có nguy cơ mắc phải nhược cơ
Bất kỳ ai cũng đều có nguy cơ mắc phải bệnh nhược cơ hay yếu cơ, tuy nhiên, đối tượng dễ mắc nhất là phụ nữ dưới 40 tuổi và nam giới trên 50 tuổi. Ngoài ra, một số yếu tố có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh bệnh lý này bao gồm:
- Bệnh nhân đang điều trị bệnh tim mạch và tăng huyết áp;
- Yếu tố di truyền, có bố hoặc mẹ bị nhược cơ;
- Bệnh nhân có u tuyến ức;
- Mắc phải các bệnh truyền nhiễm.
- Chẩn đoán nhược cơ
- Bệnh nhân tim mạch có nguy cơ mắc nhược cơ cao hơn bình thường
4. Chẩn đoán nhược cơ:
Để chẩn đoán nhược cơ chính xác, các bác sĩ sẽ dựa trên các triệu chứng lâm sàng và các xét nghiệm trên cơ thể người bệnh. Cùng với việc đánh giá thần kinh và thăm khám tổng quát, bác sĩ sẽ đặt ra một số câu hỏi cho người bệnh như:
- Tình trạng yếu cơ có nặng lên khi hoạt động nặng hoặc về buổi chiều không?
Người bệnh có gặp tình trạng mắt mở lớn lúc mới thức dậy sau đó sụp mí dần, kèm theo lé mắt không?
Có bị nuốt khó, uống sặc, nói khó?
Nếu bệnh nhân là trẻ sơ sinh thì có quấy khóc, bú kém vài giờ đầu sau sinh không?
Gia đình có ai bị bệnh nhược cơ không?
Sau khi hỏi tiền sử bệnh ở bệnh nhân thì bác sĩ tiến hành chẩn đoán nhược cơ bằng cách thăm khám lâm sàng: - Tìm dấu hiệu sụp mí một hoặc hai bên, liệt vận nhãn;
Yếu cơ chân tay;
Khám phản xạ gân cơ;
Tìm dấu hiệu dọa suy hô hấp ở người bệnh.
Ngoài ra, một số xét nghiệm giúp chẩn đoán nhược cơ cần thực hiện bao gồm: - Thử nghiệm Prostigmin: Bệnh nhân sẽ được tiêm thuốc kháng men Cholinesterase để cho các phân tử Achr chậm bị phá huỷ và nhờ đó mà các cơ hoạt động được. Thử nghiệm sẽ có kết quả dương tính khi các triệu chứng nhược cơ giảm đi rõ rệt;
Ghi điện cơ;
Chụp X-quang thường và có bơm khí trung thất;
Chụp CT và MRI;
Soi trung thất và sinh thiết để xác định bản chất của tổn thương tuyến ức;
Xét nghiệm tìm các tự kháng thể kháng Achr: Là xét nghiệm rất có giá trị trong chẩn đoán nhược cơ cũng như theo dõi và tiên lượng bệnh.
Một khi đã mắc phải bệnh nhược cơ, người bệnh có thể phải sống chung với căn bệnh này trong nhiều năm. Chính vì thế để đảm bảo sức khỏe, người bệnh không nên quá phụ thuộc và ỷ lại vào phương án điều trị của bác sĩ mà cần phải có chế độ lao động, ăn uống, sinh hoạt phù hợp, chủ động thăm khám theo lịch và khi nhận thấy bất thường xảy ra.